Tác phẩm văn học đỉnh cao – Tại sao và bao giờ?

Nguyễn Hà
Chia sẻ
(VOV5) - “Tác phẩm đỉnh cao – Tại sao và bao giờ?” chắc chắn sẽ vẫn là câu hỏi châm ngòi cho nhiều cuộc tranh luận. 

Nghe âm thanh bài tại đây qua giọng đọc PTV Phương Hằng:

Sau thành công của Hội thảo “Tổng kết văn học Việt Nam sau năm 1975” tại thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, Hội Nhà văn Việt Nam vừa tiếp tục tổ chức hội nghị cùng tên tại Hà Nội, với chủ đề “Văn học Việt Nam sau năm 1975 – thành tựu, vấn đề và triển vọng”. Hành trình 50 năm của văn chương nước nhà đọng lại điều gì từ góc nhìn của những người trong cuộc?
Tác phẩm văn học đỉnh cao – Tại sao và bao giờ? - ảnh 1Quang cảnh Hội thảo tổng kết văn học Việt Nam sau năm 1975.

Mặc dù đã trải qua 3 hội thảo, kéo dài từ Bắc – Trung – Nam và quy tụ được nhiều gương mặt văn chương, chủ đề “Văn học Việt Nam sau năm 1975” dường như vẫn quá rộng. Có nhiều vấn đề được xới xáo như: đổi mới thi ca, xây dựng đội ngũ lí luận, quảng bá văn học ra nước ngoài… nhưng nhìn chung, đây đều là những vấn đề “kinh điển” mà kì cuộc nào cũng có thể bàn tới và kì cuộc nào cũng có thể để ngỏ vì chưa tìm ra… lời giải.

Dẫu vậy, theo nhà văn Nguyễn Bình Phương, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, 50 năm vẫn là dấu mốc đáng kể để cùng nhìn lại: "50 năm trong tổng thể phát triển văn hóa của một dân tộc cũng không thấm tháp gì, nhưng 50 năm5 tính trong giai đoạn của văn học theo tôi cũng rất đáng kể. Dù sao nó cũng là nửa thế kỷ. Với thời đại ngày hôm nay, nửa thế kỷ con người có thể giải quyết được rất nhiều những vấn đề, thậm chí giải quyết được cả sự tồn vong của mình. Trong 50 năm qua, đất nước của chúng ta đi qua và chuyển động qua rất nhiều những cung bậc để tồn tại và để phát triển một cách hợp lý nhất trong tình thế của mình. 50 năm qua, văn học của chúng ta cũng biến chuyển theo. Vậy nó có thành tựu gì, nó có hạn chế gì? Nó có đóng góp gì cho dòng chảy liên tục của lịch sử, của văn học Việt Nam? Và cao hơn nó đóng góp gì cho văn hóa truyền thống của người Việt từ hàng ngàn năm cho đến bây giờ?"

“Văn học Việt Nam sau 1975 – thành tựu, vấn đề và triển vọng” tiếp tục đặt ra một câu hỏi cũ: tại sao văn chương nước nhà giai đoạn này thiếu những tác phẩm đỉnh cao? Lí do thì muôn hình muôn vẻ, như: chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức, chưa có một cơ chế chính sách hỗ trợ người viết, chưa có một chiến lược bài bản để quảng bá văn chương…

Có rất nhiều yếu tố bên ngoài cản trở người viết. Nhưng một lần nữa, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhấn mạnh rằng cản trở lớn nhất đối với người viết chính là bản thân họ: "Bởi vì khi chúng ta không thoát ra lối mòn của chúng ta đã tư duy, đã suy nghĩ, đã, cảm xúc, đã sáng tạo thì chúng ta không thể vượt được cái vật cản quan trọng lớn nhất và cả nguy hiểm nhất chính là chính các nhà văn. Tôi mong rằng trong một giai đoạn mới, trong kỷ nguyên mới này chúng ta sẽ vượt qua được. Nền văn học Việt Nam không phụ thuộc vào Ban chấp hành,cũng không phụ thuộc vào tổ chức mang tên Hội nhà văn. Nó phụ thuộc vào từng nhà văn trong phòng viết của mình."

Chưa bàn tới việc định hình chân dung văn học nước nhà trên bản đồ thế giới, chừng nào người viết còn dè dặt, còn chưa can đảm phá bỏ giới hạn của chính mình thì chừng đó, họ khó tạo ra được tác phẩm hấp dẫn đối với chính bạn đọc trong nước. Nhà phê bình văn học Bùi Việt Thắng nhận định: "50 năm qua, nếu nhìn một cách tổng quan và theo con mắt lạc quan, tôi cho rằng văn học Việt Nam đã có một bước phát triển về chất. Về lượng thì đương nhiên rồi. Cuộc phát triển về chất này là nhờ công cuộc đổi mới của Đảng lãnh đạo từ năm 1986. Nhưng vẫn có những hạn chế nhất định làm cho văn học của chúng ta chưa đáp ứng được cái nguyện vọng của nhân dân và các tầng lớp xã hội, vì rất nhiều lý do, trong đấy có lý do chính là từ nhà văn. Nhà văn vẫn có một cái gì đấy bị mặc cảm, bị o bế, bị tự kiểm duyệt mình, nên nhiều khi cảm thấy gò bó, cảm thấy lúng túng. Chính sách nào, chủ trương nào, điều kiện nào cũng trở nên bất lực nếu chúng ta không vượt qua được chúng ta."

Quan điểm này nhận được nhiều sự đồng thuận. Trong đó, có nhà thơ Đỗ Thị Tấc và nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp: "Văn học Việt Nam có tên tuổi, có dung mạo như thế nào đó trước văn học thế giới. Trả lời câu hỏi này cũng chính là nhà văn, chứ không phải là hội, không phải chế độ chính sách của Nhà nước, cũng không phải là của Ban Tuyên giáo Trung ương. Bản thân nhà văn phải là một nhà văn hóa, phải mang trong tâm thức của anh một cái vốn, một cái phông, những giá trị, những cái di sản văn hóa bản địa của một vùng. Anh sẽ không thể đi ra thế giới được (nếu không có văn hóa riêng). Văn hóa tạo nên sự khác biệt trong sáng tạo văn học." - Nhà thơ Đỗ Thị Tấc nói.

"Nhà văn có nhận thấy được chính mình chưa viết hết sức hay không và dám đương đầu với những thử thách hay không? Chúng ta nhớ lại Nguyễn Minh Châu, người được coi là tiên phong của văn học đổi mới, có một bài viết nói thẳng: cái hèn của người cầm bút. Đừng hiểu chữ “hèn” theo nghĩa thông thường, mà nói về sự dũng cảm để vượt lên mình. Đây là một vấn đề mà chúng ta phải tiếp tục suy nghĩ." - Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp chia sẻ.

Thay vì đặt ra câu hỏi: “Tác phẩm đỉnh cao - tại sao và bao giờ?”, nhiều người viết cũng hoài nghi: Sau năm 1975, chúng ta thực sự không có tác phẩm đỉnh cao hay sao? Có thực là sau 50 năm, chúng ta “cùng nhìn lại và cùng… chẳng thấy” bất cứ một tác phẩm xứng tầm nào? Đây cũng là một câu hỏi gây ra nhiều tranh cãi, liên quan tới các hệ thống định giá trị khác nhau đối với tác phẩm văn chương. Nhà phê bình văn học Văn Chinh nhắc đến trường hợp tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh, “Bến không chồng” của nhà văn Dương Hướng.

Trong khi đó, nhà văn Lê Hoài Nam nhắc tới một thứ gọi là “mặc cảm về sự đổi mới” khi nhiều người, kể cả trong giới văn chương, kiên quyết phủ nhận nhiều tác phẩm có giá trị của giai đoạn trước chỉ vì nó không phù hợp với một vài tiêu chí của bối cảnh hiện tại: "Anh em nhà văn chúng ta rất hay mang mặc cảm về sự đổi mới, cứ sợ là mình không đổi mới. Quan điểm của tôi là thế này: Văn học của mỗi thời kỳ nó đều có vai trò lịch sử của nó. Chúng ta đọc thơ của Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh… đều có vai trò lịch sử của nó. Những tác phẩm của Nam Cao hay của Ngô Tất Tố đều có vai trò lịch sử của nó. Chúng ta không được phép xóa mờ nó đi. Bởi vì lịch sử lúc đó tạo nên nhà văn như thế, tạo nên nhà thơ như thế.

Thứ hai, có một số quan niệm đổi mới tức là làm ngược lại cũ. Tôi không đồng tình. Văn học chống Mỹ chúng ta viết nhân ái bao nhiêu, thương yêu con người bao nhiêu, tại sao bây giờ chúng ta viết về con người ác thế? Nhà văn Dostoievski người ta gọi là thiên tài của cái ác, nhưng đọc tác phẩm của ông, nhiều khi cái ác lên đến ngộp thở, nhưng đọc xong tác phẩm thì thấy ông muốn cứu vớt con người. Văn chương là như thế, phải có cái nhìn dài như thế. Chứ không phải văn chương hôm nay tôi viết khác ngày xưa, khác trước mấy chục năm, tôi đã hay chưa? Không hẳn đâu!"

“Tác phẩm đỉnh cao – Tại sao và bao giờ?” chắc chắn sẽ vẫn là câu hỏi châm ngòi cho nhiều cuộc tranh luận. Lời hồi đáp có lẽ không nằm trong các bài viết phê bình mà nằm đâu đó trong trang sách hoặc một trang bản thảo còn dang dở.

Phản hồi

* Vui lòng nhập bình luận tiếng Việt có dấu