Loạt bài: Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam - Bài 1: Thị trường mỹ thuật Việt từ hình thái sơ khai đến khát vọng tự chủ

Phi Hà
Chia sẻ
(VOV5) - Thị trường mỹ thuật Việt Nam đang bước vào giai đoạn đối thoại giữa truyền thống và đương đại, giữa nhà nước và tư nhân, giữa văn hóa và kinh tế.
Thị trường mỹ thuật là một cấu phần quan trọng trong bức tranh toàn cảnh về thị trường nghệ thuật Việt Nam.
Loạt bài: Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam - Bài 1: Thị trường mỹ thuật Việt từ hình thái sơ khai đến khát vọng tự chủ - ảnh 1Hội thảo khoa học “Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam: thực trạng và giải pháp do Viện văn hóa nghệ thuật thể thao du lịch” (Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch) tổ chức tại Hà Nội với sự đóng góp ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia trong ngành.

Một thị trường đang định hình

Bốn mươi năm sau công cuộc Đổi mới, mỹ thuật Việt Nam đã trải qua những chuyển động mạnh mẽ: từ chỗ chỉ “bán ra nước ngoài”, nay bắt đầu “mua lại cho mình”. Tuy nhiên, như giám tuyển, nhà nghiên cứu mỹ thuật Lý Đợi chỉ rõ, thị trường trong nước vẫn ở giai đoạn “sơ cấp, non trẻ và thiếu chuyên nghiệp”, khi “người sáng tác, người mua và cơ chế giao dịch vẫn rời rạc, thiếu kết nối.” Nhìn nhận tập trung vào hệ thống cấu trúc – trụ cột pháp lý, theo Lý Đợi, một thị trường mỹ thuật đúng nghĩa phải có tám trụ cột: từ sáng tạo, sưu tập, các mắt xích trung gian, giám tuyển, thẩm định, tài chính đến khung pháp lý và hậu cần.

 “Làm sao đó để chúng ta có một cơ chế tài chính đặc thù, có những hướng dẫn đặc thù hơn, để thị trường mỹ thuật Việt Nam có thể được kiểm soát và được bảo vệ bằng Luật, bằng thuế, vì đó là quyền lợi của đôi bên: của nhà nước cũng như của những người tham gia thị trường. Chỉ khi kiện toàn các trụ cột thẩm định, tài chính và pháp lý, thị trường mới có thể minh bạch và bền vững.” – Giám tuyển Lý Đợi khẳng định.

Hiện tại, thị trường thứ cấp – nơi tác phẩm được mua đi bán lại – mới chỉ “manh nha”, dù đã xuất hiện các nhà đấu giá như Lạc Việt, Lý Thị, Chọn de l’Art, PI, Le Auction... Đây là “dấu hiệu tích cực nhưng chưa đủ”, như Lý Đợi thẳng thắn nhìn nhận.

Loạt bài: Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam - Bài 1: Thị trường mỹ thuật Việt từ hình thái sơ khai đến khát vọng tự chủ - ảnh 2Bảo tàng Nghệ thuật Quang San là bảo tàng tư nhân đầu tiên tại TP Hồ Chí Minh, lưu giữ gần 1 thế kỷ hội họa Việt Nam.- Ảnh: Trần Văn Hiếu

Từ góc nhìn nhà đấu giá, cần coi tác phẩm là tài sản đầu tư. Việt Nam cần xây dựng được một thị trường số hóa các tác phẩm nghệ thuật. Theo ông Vũ Tuấn Anh, Giám đốc Nhà đấu giá Chọn de l’Art, thị trường nghệ thuật toàn cầu đạt hơn 70 tỷ USD mỗi năm, trong khi Việt Nam vẫn còn ở “mức khởi động”.

Thị trường mỹ thuật Việt Nam manh nha hình thành từ thập niên 1990,  nhưng nhanh chóng thoái trào. Trong khoảng 5 năm trở lại đây, chúng ta đã có rất nhiều tác phẩm mỹ thuật được đấu giá tại các sàn đấu giá lớn của thế giới của nhiều danh họa Việt, với giá tới hơn triệu USD. Nhưng chúng ta thiếu hệ thống định giá, thiếu cơ chế cho vay, thế chấp bằng tác phẩm nghệ thuật.

Loạt bài: Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam - Bài 1: Thị trường mỹ thuật Việt từ hình thái sơ khai đến khát vọng tự chủ - ảnh 3Ông Vũ Tuấn Anh, Giám đốc Nhà đấu giá Chọn de l’Art.

Ông Vũ Tuấn Anh cho rằng, để nghệ thuật thực sự trở thành một kênh đầu tư tài chính, cần phát triển các công cụ kinh tế văn hóa: quỹ đầu tư nghệ thuật, bảo hiểm tác phẩm, cho vay cầm cố tranh và thuế ưu đãi cho sưu tập. Muốn có thị trường thứ cấp, Việt Nam phải chấp nhận coi tác phẩm nghệ thuật là tài sản, được định giá và lưu thông hợp pháp

“Đã gọi là một nền công nghiệp văn hóa, thì phải kết hợp ở ba góc độ: văn hóa nghệ thuật, công nghệ, và tài chính. Đó là xu hướng tất yếu của thế giới và của kỷ nguyên mới. Mà Việt Nam, đúng như tinh thần của Bộ chính trị, nếu chúng ta muốn phát triển GDP 2 con số, chạm đến ngưỡng thu nhập cao thay vì thu nhập trung bình cao… muốn đuổi kịp các nước trên thế giới, chúng ta bắt buộc phải áp dụng công nghệ vào thị trường văn hóa nghệ thuật. Và sàn giao dịch số hóa tác phẩm nghệ thuật là phải có, thậm chí là phải có sớm và hình thành sớm. Nếu nhà nước ủng hộ thì Chọn de l’Art sẵn sàng đi đầu” - Ông Vũ Tuấn Anh khẳng định.

Nhận định này mở ra một hướng mới: đưa nghệ thuật ra khỏi phạm vi “cảm xúc” để trở thành một lĩnh vực của kinh tế sáng tạo. Trong đó, gallery là những mắt xích âm thầm nhưng quyết định. Từ góc nhìn văn hóa đô thị, ThS. Nguyễn Lan Hương (Vụ Khoa học, Công nghệ, Đào tạo và Môi trường, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) khẳng định vai trò then chốt của mạng lưới gallery Hà Nội trong việc “nuôi dưỡng nghệ sĩ, kết nối công chúng và hình thành giá trị thẩm mỹ”. “Những cái tên như Nam Sơn, Sông Hồng, Green Palm, Apricot không chỉ bán tranh mà còn góp phần định hình gu thẩm mỹ và đưa mỹ thuật Việt Nam ra thế giới.”

Theo bà Nguyễn Lan Hương, ở góc nhìn hạ tầng văn hóa đô thị, Hà Nội hiện có hơn 70 không gian nghệ thuật và sáng tạo, nhưng “hoạt động rời rạc, thiếu hệ thống quản lý và chính sách hỗ trợ thuế, bản quyền, đào tạo.” Bà đề xuất thành lập Hiệp hội các không gian sáng tạo và gallery Việt Nam để liên kết nguồn lực, chia sẻ dữ liệu, hướng tới chuyên nghiệp hóa.

Loạt bài: Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam - Bài 1: Thị trường mỹ thuật Việt từ hình thái sơ khai đến khát vọng tự chủ - ảnh 4Công chúng thưởng ngoạn các tác phẩm của nghệ sĩ Đào Minh Tri trong triển lãm Hồi cố vọng lai, do Đỗ Tường Linh giám tuyển vào tháng 9/2025 tại Trung tâm Nghệ thuật Đương đại Vincom VCCA - Ảnh: Đỗ Thủy
 
Mỹ thuật và chính sách văn hóa: nhìn từ vai trò Nhà nước

Trong bài tham luận của mình, nhà nghiên cứu, giám tuyển Lý Đợi và thạc sĩ Nguyễn Lan Hương đều đồng thuận rằng: để thị trường mỹ thuật phát triển, chính sách công phải đi trước. Theo các nhà nghiên cứu, nếu không có chính sách, thị trường mỹ thuật sẽ vẫn ở mức tự phát, không đủ sức trở thành trụ cột trong nền kinh tế sáng tạo quốc gia. Ba giải pháp được đề xuất: Hoàn thiện khung pháp lý về bản quyền, định giá, thuế; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tác phẩm nghệ thuật và nhà sưu tập; tạo môi trường giáo dục thẩm mỹ công chúng, để hình thành nhu cầu thưởng thức thật. 

Ở góc nhìn của Đỗ Tường Linh và Nguyễn Vũ Tú Hằng – hai giám tuyển và nhà nghiên cứu hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật đương đại – Việt Nam đang chứng kiến sự chuyển dịch thế hệ sáng tạo với hàng loạt không gian mới như Galerie Quynh, Annam Gallery, Mơ Art Space /atspết/, Chau & Co Gallery, Hanoi Art Studio, Gate Gate Gallery….đại diện cho làn sóng sáng tạo năng động từ Nam ra Bắc.

Giám tuyển Đỗ Tường Linh cho rằng: Thế hệ nghệ sĩ mới không còn lệ thuộc hoàn toàn vào gallery truyền thống; họ tìm thấy khán giả qua triển lãm độc lập, nghệ thuật sắp đặt, trình diễn và môi trường số.

Trong khi đó, Nguyễn Vũ Tú Hằng, giám đốc Hanoi Grapevine, nhấn mạnh: “Các không gian sáng tạo không chỉ là nơi trưng bày, mà còn là trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm, kết nối nghệ sĩ – công chúng – học thuật – thị trường. Chúng ta nên tập trung vào xây dựng thị trường nghệ thuật Việt Nam hiện đại, đương đại hơn là tập trung vào tác phẩm của những người đã khuất”

Hướng đến không gian sáng tạo và hội nhập quốc tế, cả hai cho rằng, sự hình thành của Trung tâm Điều phối các hoạt động sáng tạo Hà Nội (2024) là tín hiệu tích cực, giúp nghệ thuật đương đại Việt có cơ chế gắn kết với kinh tế sáng tạo và chính sách đô thị.

Thị trường nội địa – nền móng của tự chủ văn hóa

Một lát cắt đặc biệt trong bức tranh thị trường đến từ nhóm tác giả Lâm Nhân – Phạm Lan Hương với nghiên cứu về “Hành trình hồi hương và kết nối di sản”. Theo nghiên cứu này, từ 2018 đến 2025, Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM đã tiếp nhận ba đợt hiến tặng tác phẩm quý từ Pháp – bao gồm tranh của Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu… do ông bà Lê Tất Luyện và Thụy Khuê tặng lại.

TS Phạm Lan Hương (Trường Đại học văn hóa thành phố Hồ Chí Minh) khẳng định: Việc các tác phẩm được hồi hương không chỉ là sưu tầm hiện vật, mà là hành trình trở về của ký ức và di sản – nơi những ‘mảnh hồn Việt’ được trao lại cho quê hương Vì trong quá trình chia sẻ tư liệu, tác phẩm và quan điểm giữa các bên liên quan, thực sự đó là sự trở về. Qua sự trở về này, giá trị nghệ thuật của những họa sĩ Lê Thị Lựu, họa sĩ Lê Bá Đảng vv… dường như đã ùa lại vào dòng chảy của mỹ thuật Việt Nam. Và là sự trở lại của các giá trị nghệ thuật vượt thời gian”

Những nỗ lực ấy góp phần “bồi đắp bản đồ ký ức nghệ thuật Việt Nam”, tạo cầu nối giữa thế hệ danh họa Đông Dương và công chúng đương đại, yếu tố tinh thần quan trọng cho một thị trường tự chủ.

Các nhà nghiên cứu, các chuyên gia, doanh nhân, nghệ sĩ đều nhìn nhận nhu cầu cấp thiết của một thị trường minh bạch, nội địa mạnh. Tuy nhiên, sự khác biệt nằm ở trọng tâm giải pháp. Sự đa dạng này là điều tích cực: nó cho thấy thị trường mỹ thuật Việt Nam đang bước vào giai đoạn đối thoại giữa truyền thống và đương đại, giữa nhà nước và tư nhân, giữa văn hóa và kinh tế.

Loạt bài: Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam - Bài 1: Thị trường mỹ thuật Việt từ hình thái sơ khai đến khát vọng tự chủ - ảnh 5Nhà nghiên cứu, giám tuyển Lý Đợi tại hội thảo khoa học Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam: thực trạng và giải pháp

Từ “bán ra” đến “mua lại”, từ “phòng tranh nhỏ” đến “phiên đấu giá triệu đô”, hành trình ấy không chỉ là sự vận động của giá trị vật chất, mà là sự trưởng thành của ý thức văn hóa. Như giám tuyển Lý Đợi nói: Thị trường mỹ thuật chỉ bền khi người Việt thực sự chơi tranh Việt, mua tranh Việt, và tin vào giá trị của chính nghệ thuật nước mình. Và như nhà nghiên cứu Nguyễn Lan Hương nhấn mạnh: “Không có công chúng thẩm mỹ, không thể có thị trường nghệ thuật.”

Thị trường mỹ thuật Việt Nam hôm nay vẫn còn non trẻ, nhưng đã có đủ mảnh ghép: định hướng chính sách, hạ tầng, nhà đấu giá, gallery, và thế hệ sáng tạo mới.Nếu được kết nối, đảm bảo sự đồng bộ, liên thông trong chuỗi giá trị, tạo hệ sinh thái gắn kết giữa các chủ thể và tác nhân liên quan trong một chiến lược quốc gia về kinh tế sáng tạo, đây sẽ là nền tảng để Việt Nam khẳng định chủ quyền văn hóa trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.    

Việt Nam đang tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện. Trong bối cảnh hiện đại, toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, số hóa, thị trường nghệ thuật ngày càng được nhìn nhận là một nguồn lực nội sinh quan trọng, không chỉ đóng góp cho sự thịnh vượng về kinh tế mà còn là sức mạnh mềm của dân tộc, có tác động mạnh mẽ đời sống tinh thần, tình cảm, tư tưởng của con người. Thị trường nghệ thuật cũng như thị trường văn hóa Việt Nam hiện nay là một bức tranh có nhiều mảng sáng tối đan xen, trong khi thị trường nghệ thuật giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế sáng tạo, không chỉ đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và đời sống xã hội mà còn thúc đẩy giao lưu, hội nhập quốc tế, góp phần bồi bổ năng lực cảm xúc và thẩm mỹ của cộng đồng, nuôi dưỡng sự sáng tạo, đổi mới và đa dạng văn hoá – nguồn lực mềm có khả năng lan tỏa và cảm hóa sâu rộng.

Những thông tin này được đưa ra tại Hội thảo khoa học “Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam: thực trạng và giải pháp" do Viện Văn hóa Nghệ thuật Thể thao Du lịch (Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch) vừa tổ chức cuối tháng 10. Để góp phần tạo ra một bức tranh của thị trường nghệ thuật ở Việt Nam đa sắc màu và tràn đầy sức sống, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đồng thời đảm bảo các mục đích về văn hóa, xã hội, đã có nhiều ý kiến đóng góp của các chuyên gia. 

Phản hồi

* Vui lòng nhập bình luận tiếng Việt có dấu