Nghị quyết 36/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu cụ thể đến năm 2030, các ngành kinh tế thuần biển đóng góp 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65-70% GDP cả nước…Nghị quyết 36 cũng định hướng phát triển nền kinh tế biển xanh, bền vững.
Nhằm hiện thực hóa mục tiêu của Nghị quyết, nhiều tỉnh thành ven biển đã đưa ra hàng loạt quyết sách, nhằm đưa nền kinh tế biển của địa phương tiến tới phát triển bền vững. Phóng viên Đài TNVN đã phỏng vấn PGS, TS Nguyễn Chu Hồi, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nghề cá Việt Nam, Ủy viên Ủy ban KHCNMT Quốc hội Khóa XV về nội dung này từ thực tế của tỉnh Khánh Hòa.
Nghe âm thanh phỏng vấn tại đây:
PGS. TS Nguyễn Chu Hồi, Ủy viên Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường Quốc hội Khóa XV, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nghề cá Việt Nam |
Nghe âm thanh phỏng vấn tại đây:
PV: Có thể nói “Nghị quyết 36 là Quyết sách phát triển bền vững kinh tế biển”. Thưa PGS.TS Nguyễn Chu Hồi! Trước hết, xin ông đánh giá về tiềm năng và lợi thế vượt trội của tỉnh Khánh Hòa trong phát triển kinh tế biển?
PGS. TSKH Nguyễn Chu Hồi: Tỉnh Khánh Hòa có tính biển cao nhất. Nếu như chỉ số biển của Việt Nam khoảng 0,01 so với trung bình của thế giới 0,06 thì Khánh Hòa cao hơn khoảng 2 lần. Khánh Hòa có trong vùng biển hơn 200 đảo- là tỉnh có mật độ đảo lớn nhất. Trong đó 2 đảo lớn, diện tích trên 30 km2 và đây là những đảo lớn nhất ở miền Trung. Khánh Hòa có một vị thế đặc biệt là có huyện đảo Trường Sa (tổ quốc ở phía chân trời) mà Khánh Hòa được giao sứ mệnh quản lý và khai thác. Đây là trung tâm phát tán nguồn lợi và duy trì nghề cá không chỉ cho Việt Nam mà còn cho cả khu vực, các nước trong biển Đông.
Khánh Hòa có bờ biển dài hơn 300 cây số, có nhiều vũng, vịnh. Mật độ vũng vịnh ven bờ cũng cao nhất ở khu vực miền Trung. Các vịnh đều rất đặc biệt có giá trị mang tính chất toàn cầu. Vịnh Vân Phong là vịnh duy nhất ở Việt Nam và cũng rất hiếm trên thới giới không có con sông lớn nào chảy vào. Vịnh Cam Ranh với độ sâu tự nhiên và địa hình rất đặc biệt. Vịnh Nha Trang là một trong những vịnh đẹp nhất thế giới rất có giá trị mà chúng ta cần phải bảo vệ.
Khánh Hòa có lợi thể lớn vượt trội về phát trienr kinh tế. |
Tiềm năng lợi thế vượt trội về biển để Khánh Hòa có thể phát triển kinh tế biển một cách tốt nhất, trong đó có cả dầu khí. “Bồn trũng” Phú Khánh là một trong 7 “bồn trũng” dầu khí ở Việt Nam. Gần đây phát hiện những biểu hiện của băng cháy (là một hỗn hợp khí Hydrat metan) có thể thay thế trong tương lai cho những năng lượng hóa thạch dạng dầu khí và than đá.
Với những cảnh quan đặc biệt của vùng bờ biển Khánh Hòa cũng như cảnh quan của các rạn san hô, Khánh Hòa có tiềm năng du lịch rất độc đáo. Khánh Hòa được xác định là một trong những tỉnh phát triển du lịch với tư cách là một ngành kinh tế đi đầu và đồng thời cũng là một ngành kinh tế hướng tới tăng trưởng xanh một cách dễ dàng nhất.
PV: Thưa ông! Là chuyên gia nhiều năm nghiên cứu về phát triển kinh tế biển, ông có thể nói rõ hơn về “kinh tế biển xanh, bền vững”?
PGS. TSKH Nguyễn Chu Hồi: Trong NQ 36/2018 ghi rất rõ quan điểm về phát triển kinh tế biển Việt Nam dựa trên nền tảng của phát triển kinh tế biển xanh và phát huy các giá trị văn hóa biển đặc trưng Việt Nam. Những yếu tố này, tôi nghĩ Khánh Hòa có những tiềm năng lợi thế, bởi có những nét văn hóa riêng của miền Trung, của văn hóa biển. Cho nên kinh tế biển xanh là một nền tảng mà chúng ta cần phải tạo dựng.
Kinh tế biển xanh suy cho cùng về bản chất là lấy môi trường biển làm chất xúc tác, dựa trên việc bảo tồn các nguồn vốn tự nhiên của biển bao gồm các tài nguyên, đặc biệt là các hệ sinh thái đa dạng sinh học biển, kể cả những tài nguyên vi sinh vật. Ví dụ chúng ta có dầu khí, các nguyên liệu, vật liệu, băng cháy...Chúng ta khai thác làm sao phải bền vững, tiết kiệm các nguồn tài nguyên để đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh thực phẩm cũng như bảo đảm cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau. Điểm thứ hai là kinh tế biển xanh phải dựa trên việc áp dụng các công nghệ, khi mình can thiệp vào quá trình phát triển kinh tế biển là những công nghệ thân thiện với môi trường.
Thứ ba, nếu như chúng ta có các nguồn vốn tự nhiên không được phục hồi, đang bị suy thoái thì chúng ta phải tiến hành phục hồi để giữ được nguồn vốn này, để đem lại giá trị. Chúng ta phát triển những ngành kinh tế thân thiện với môi trường. Ví dụ nhưng năng lượng biển tái tạo, như dược liệu biển, như nghề cá giải trí...
PV: Với đặc thù của Kinh tế biển Khánh Hòa, có rất nhiều điều cần làm. Ông có thể đưa ra đề xuất mà ông tâm đắc nhất?
PGS. TSKH Nguyễn Chu Hồi: Tôi cho rằng, trong kinh tế biển có nhiều lĩnh vực. Du lịch được xem là ngành kinh tế đi đầu. Khánh Hòa được xem là trung tâm kinh tế du lịch biển của cả nước đến năm 2030, rồi cảng biển v.v…
Trong Nghị quyết 36/2018 có ghi, lĩnh vực thứ 6 trong định hướng:“Phát triển năng lượng tái tạo và những ngành kinh tế biển mới”. Vậy ngành kinh tế biển mới của Khánh Hòa là gì? Tôi nghĩ rằng, bên cạnh những ngành kinh tế truyền thống như cảng biển, chúng ta có thể to nhỏ, rồi du lịch cũng rất là quan trọng nhưng cũng là ngành truyền thống. Thủy sản chúng ta cũng phát triển, chúng ta chuyển hướng ra nuôi biển. Tôi cho rằng, chúng ta phát triển kinh tế dựa vào bảo tồn, nhờ bảo tồn mà chúng ta giữ được nó theo đúng Nghị quyết 36 thì mới bền vững, mới xanh.
Trong kinh tế bảo tồn thì chúng ta phải giữ được các nguồn vốn tự nhiên. Chúng ta phát triển được các ngành kinh tế thân thiện. Ví dụ các trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ biển đóng ở Khánh Hòa rất nhiều. Chúng ta có thể mạnh dạn phát triển thêm các lĩnh vực kinh tế biển mới. Ví dụ như là nghề cá giải trí gắn vào du lịch, dược liệu biển...
PV: Việc chuyển từ nghề cá nhỏ sang nghề cá bền vững là hết sức khó khăn. Thưa PGS.TS Nguyễn Chu Hồi! Theo ông để, chuyên nghiệp, hiện đại hóa nghề cá phải bắt đầu từ đâu?
PGS. TSKH Nguyễn Chu Hồi: Ở Việt Nam thì về cấu trúc nguồn lợi là nghề cá đa loài. Nghề cá nhỏ phát triển mang tính chất truyền thống. Khoảng mấy chục năm gần đây chúng ta chuyển sang song hành với nghề cá thương mại và trở thành một trong những nước xuất khẩu thủy sản đứng trong top 10 của thế giới. Tuy nhiên, bản chất vẫn là một nghề cá nhỏ. Việc chuyển từ một nghề cá nhỏ sang nghề cá bền vững có trách nhiệm sẽ hết sức khó khăn. Điều đầu tiên cần quan tâm tôi nghĩ phải là con người. Chúng ta từ ngư dân đánh bắt ven bờ mà bây giờ chuyển sang làm hiện đại hơn thì chúng ta phải chuyển đổi nhận thức tư duy. Chúng ta phải được đào tạo lại, chúng ta phải tăng cường kỹ năng nghề nghiệp.
Điểm thứ hai là chúng ta phải thay đổi, tổ chức lại nghề cá với một đội tàu không nhiều như hiện nay để tăng cường nguồn lợi và phải thực hiện tiếp cận đồng bộ, giải quyết 3 vấn đề là ngư dân, ngư nghiệp và ngư trường, gọi tắt là “tam ngư”. Một nghề cá có trách nhiệm phải là nghề cá không đánh bắt bất hợp pháp, phải là nghề cá truy xuất được nguồn gốc, phải có nghề cá kiểm soát được, không chỉ bền vững ở quốc gia, còn bền vững trong khu vực và toàn cầu. Đây là những cam kết của Việt Nam đối với những tổ chức nghề cá quốc tế mà chúng ta phải kiên quyết thực hiện trong thời gian tới.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!