Cách đây gần 20 năm (năm 2006), làng nghề bó chổi Cồn Nhỏ, xã Phú Bình, huyện Phú Tân được Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang công nhận làng nghề tiểu thủ công nghiệp. Hiện, làng nghề này ngày càng được đầu tư, mở rộng quy mô phát triển.
Theo nhu cầu của thị trường, đòi hỏi các cơ sở làm chổi phải làm nhiều mẫu mã, đa dạng hơn. Ảnh: VOV |
Nghe âm thanh bài viết tại đây:
Làng nghề bó chổi Cồn Nhỏ đã có từ hàng chục năm trước, tập trung nhiều nhất ở ấp Bình Thành. Các bậc cao niên kể lại thuở trước, ở xứ Cồn Nhỏ lau sậy mọc um tùm, giữa mùa nước người dân đi hái bông sậy về phơi khô rồi bó thành chổi sử dụng trong nhà. Người này chỉ cho người kia, việc bó chổi trở thành nghề mưu sinh của nhiều gia đình kể từ đó.
Hiện, làng nghề có khoảng 350 hộ sản xuất kinh doanh, thu hút trên 1.000 lao động tham gia. Chổi có 2 loại là chổi bông sậy và chổi bông cỏ. Về kiểu dáng thì có nhiều loại: chổi vấn màn (quấn bằng sợi nhựa dẹp nhiều màu), chổi cán lát (quấn bằng dây gân), chổi cán nhựa hoặc chổi đổ bọc. Giá cả khoảng 20.000 đồng/cây (gần 1 USD/cây). Bình quân mỗi tháng, làng nghề xuất xưởng 200.000 cây chổi. Sản phẩm được tiêu thụ ở nhiều địa phương trong nước và xuất khẩu. Anh Đào Trung Hiếu, một trong những hộ sản xuất lớn tại địa phương, cho biết: “Thị trường tiêu thụ chủ yếu là Campuchia, chiếm khoảng 70%, còn 30% chia đều cho thị trường nội địa, Indonesia và Thái Lan. Tùy theo đơn hàng, có thể 1 tuần là có từ 4 đến 5 xe chở hàng. Những tháng việc nhiều, đó là những tháng gần Tết của Campuchia. Thời điểm này, đơn hàng nhiều hơn, mỗi ngày cần từ 60 đến 70 lao động”.
Anh Đào Trung Hiếu giói thiệu về một số mẫu chổi đang được cơ sở của anh sản xuất. Ảnh: VOV |
Theo người dân ở làng nghề này, hiện nay việc bó chổi đã có máy móc hỗ trợ, như: máy “bắn” ốc vào cán, máy tra cán… nên chổi đảm bảo được độ chắc bền và đẹp hơn. Tuy nhiên, đa số các công đoạn trong việc bó chổi vẫn phải làm thủ công. Một cây chổi dù bằng cán nhựa hay cán trúc đều qua các công đoạn vào lọn, bó, bện, … máy móc hiện đại cũng không thể thay thế đôi bàn tay khéo léo của người thợ. Nhờ có đầu ra ổn định, nên thu nhập của người lao động không bị bấp bênh. Chị Hà Vy, người lao động làm nghề bó chổi ở xã Phú Bình, cho biết: “Lúc trước tôi đi làm cho một nhà hàng tại tỉnh Bình Dương, sau đó về quê làm. Tôi làm chổi ở đây cũng được hơn một năm rồi, thu nhập tạm ổn”.
Còn chị Đoàn Thị Như Ý, người dân xã Phú Bình, kể: “Trước đây, tôi ở nhà, trông em giúp mẹ, giờ đi làm bó chổi. Làm ở đây ổn định, mỗi tháng kiếm được từ 5 đến 6 triệu đồng (212 - 254 USD)”.
Bình quân mỗi tháng, làng nghề xuất xưởng 200.000 cây chổi. Ảnh: VOV |
Nếu như trước đây, bông cây sậy là nguyên liệu chính để sản xuất chổi, chỉ có vào mùa nước nổi thì hiện nay, chổi lại được làm bằng bông của cây đót, nguyên liệu này được nhập về từ các tỉnh miền Trung, không phụ thuộc theo mùa, nguyên liệu dồi dào, nên sản xuất quanh năm. Ông Cao Văn Mức, chủ một cơ sở sản xuất chổi ở ấp Bình Thành, xã Phú Bình, cho biết: “Ngày xưa lấy bông sậy ở Cà Mau, Kiên Giang… nhưng được một thời gian hết. Sau này mới có bông đót ở miền Trung, người ta bán, giao cho mình quanh năm không thiếu hàng. Mỗi ngày tôi làm được khoảng 1.000 cây chổi, trừ tiền thuê nhân công, mỗi cây chổi cũng lãi được 1.000 đồng (0,04 USD)”.
Để duy trì, phát triển làng nghề, Ủy ban nhân dân xã và Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Phú Tân tạo điều kiện cho bà con tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, lãi suất thấp. Về lâu dài, anh Hồ Thành Thật, cán bộ quản lý làng nghề xã Phú Bình, cho biết: “Làng nghề đã giải quyết công ăn việc làm cho lao động địa phương, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Nói chung, ai làm trong làng nghề cũng không thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo. Theo nhu cầu của thị trường, đòi hỏi phải làm nhiều mẫu mã, đa dạng hơn. Xã Phú Bình và huyện An Phú cũng tính làm thương hiệu cho làng nghề này; thành lập một Hợp tác xã để liên kết với nhau, hình thành sản phẩm “Chổi Phú Bình”, để bán ra thị trường với giá thành cao hơn”.
Chổi được sản xuất quanh năm, không chỉ tạo thu nhập ổn định cho người dân địa phương mà còn góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát triển nghề truyền thống, bảo tồn văn hóa làng nghề.