Với những nỗ lực trong nhiều năm qua, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu về công tác bình đẳng giới, được thế giới công nhận là một trong 10 quốc gia thực hiện tốt nhất mục tiêu số 5 về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái trong các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Những thành tựu đạt được trở thành nền tảng vững chắc, là động lực mạnh mẽ để Việt Nam tiếp tục thực hiện các mục tiêu về bình đẳng giới, góp phần đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.
Ảnh minh hoạ: Thanh Tùng/TTXVN |
Thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, Việt Nam thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần thu hẹp khoảng cách giới trong các lĩnh vực, tạo điều kiện để nữ giới đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Nền tảng vững chắc
Theo Báo cáo Phát triển con người năm 2020 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Chỉ số Phát triển con người (HDI) của Việt Nam là 0,704, tăng 1 bậc so với năm trước và xếp thứ 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ, ghi dấu lần đầu tiên Việt Nam lọt vào nhóm các nước có chỉ số HDI ở mức cao. Cùng với đó, bất bình đẳng về thu nhập (19,1%) và hệ số Gini (35,7) là thước đo bất bình đẳng của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất trong số các quốc gia được so sánh năm 2019. Đây là thành tựu không phải quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp nào cũng đạt được.
Kết quả bình đẳng giới còn được thể hiện ở khía cạnh giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động; chú trọng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao. Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2021 của Tổng cục Thống kê cho thấy, nữ giới chiếm đến 47,3% lực lượng lao động chính của cả nước. Có khoảng trên 285 nghìn doanh nghiệp do nữ doanh nhân đứng đầu, chiếm 24% tổng số doanh nghiệp cả nước. Tỷ lệ nữ giới biết chữ trong độ tuổi từ 15-60 đạt hơn 97%, tỷ lệ nữ thạc sỹ đạt hơn 54%, tỷ lệ tiến sỹ đạt xấp xỉ 31%.
Điều đáng nói là trong giai đoạn 2011-2020, nội dung bình đẳng giới đã được bổ sung hoặc lồng ghép vào nhiều văn bản pháp luật quan trọng của Việt Nam như Hiến pháp 2013, Luật Đất đai 2013, Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi 2014, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật Dân sự sửa đổi, Bộ luật Lao động 2019...Bên cạnh đó, đã có nhiều chính sách mang tính đột phá như quy định của Luật Bảo hiểm xã hội 2014, theo đó lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội được nghỉ nguyên lương và phụ cấp khi vợ sinh con hay tăng tuổi nghỉ hưu của phụ nữ theo lộ trình như quy định của Bộ luật Lao động sửa đổi 2019. Thành tựu này thể hiện sự cam kết chính trị mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới và sự tiến bộ trong công tác lập pháp trong hiện tại và tương lai.
Với nỗ lực của cả hệ thống chính trị, sau 10 năm triển khai Chiến lược bình đẳng giới, Việt Nam đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần thu hẹp khoảng cách giới trong các lĩnh vực, tạo điều kiện để nữ giới đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc biệt, kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 với tỷ lệ 30,26% nữ đại biểu Quốc hội và gần 30% nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp càng cho thấy Đảng và Nhà nước đã và đang nỗ lực thực hiện bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ Việt Nam.
Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới
Nhằm tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, ngày 03/3/2021, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030, tiếp tục tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. 6 mục tiêu cụ thể của chiến lược được đề ra trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, trong đời sống gia đình và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới, trong lĩnh vực y tế, giáo dục, đào tạo và lĩnh vực thông tin, truyền thông. Có thể kể đến một số mục tiêu điển hình như: đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Tăng tỷ lệ lao động nữ làm công hưởng lương đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030. Phấn đấu đạt 60% vào năm 2025 và 80% vào năm 2030 dân số được tiếp cận kiến thức cơ bản về bình đẳng giới...
Việt Nam cũng ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Kế hoạch bao gồm việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, trách nhiệm quản lý của chính quyền các cấp trong việc nâng cao nhận thức, triển khai thực hiện và hoàn thiện thể chế về bình đẳng giới. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật bảo đảm các nguyên tắc bình đẳng giới trên các lĩnh vực có liên quan. Thực hiện lồng ghép các nội dung bình đẳng giới trong xây dựng chính sách, pháp luật và các chương trình, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với đó là xây dựng và triển khai các Chương trình nhằm thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về bình đẳng giới. Tăng cường năng lực bộ máy quản lý nhà nước về bình đẳng giới các cấp...
Sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, việc xây dựng, ban hành hành lang pháp lý đầy đủ, từ Hiến pháp, pháp luật cho đến việc lồng ghép mục tiêu bình đẳng giới trong các cơ chế, chính sách phát triển đã và đang tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ tham gia xây dựng đất nước, phát triển bản thân và thúc đẩy mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam.