TAND tỉnh Thái Bình thông báo cho anh Phạm Văn Khoản

Chia sẻ
(VOV5) -

“Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình thông báo cho:

1. Anh Phạm Văn Khoản, sinh năm 1970; Quốc tịch: Việt Nam

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn Nhạo Sơn, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Hiện đang định cư tại Cộng hòa Liên bang Đức.

2. Chị Phạm Thị Thu Hương, sinh năm 1980;  Quốc tịch: Việt Nam

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Số nhà 2, đường Lê Đại Hành, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.

Hiện đang định cư tại Cộng hòa Liên bang Đức.

3. Chị Phạm Thị Minh Hằng, sinh năm 1984; Quốc tịch: Việt Nam

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Số 2412, tòa S203 Vinhome Smart City Tây Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Hiện đang định cư tại Vương quốc Anh.

Về việc Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đang giải quyết vụ án “Tranh cấp chia di sản thừa kế” giữa nguyên đơn là ông Phạm Văn Trường và bị đơn là ông Phạm Văn Khải.

Tại Bản án số 12/2022/DS-ST ngày 15/9/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đã quyết định:

Căn cứ khoản 5 Điều 26; khoản 1 Điều 37; Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 149, Điều 623, Điều 650, Điều 651, Điều 652 Bộ luật dân sự 2015; Pháp lệnh 36 ngày 10/9/1990; Nghị quyết 02 ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Tối cao và áp dụng Án lệ số 26/ 2018/Al; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia thừa kế của ông Phạm Xuân Trường đối với phần di sản của cụ bà Bùi Thị Suối.

2. Đình chỉ yêu cầu giải quyết chia di sản của Cụ Phạm Văn Mân do hết thời hiệu.

3. Di sản của cụ Bùi thị Suối là: Giá trị quyền sử dụng diện tích 200m2 đất (trong đó 180m2 đất ở và 20m2 đất vườn cây lâu năm) tại thửa đất số 383, tờ bản đồ địa chính số 02 trong tổng diện tích 400m2 (trong đó có 360m2 đất ở và 40m2 đất vườn cây lâu năm) tại thôn Nhạc Sơn, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Giá trị tương đương là 902.250.000 đồng.

4. Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Bùi Thị Suối là ông Phạm Hồng Lộ, ông Phạm Xuân Mẫn, ông Phạm Văn Trường, ông Phạm Văn Căng, bà Phạm Thị Mây, bà Phạm Thị Mưa, bà Phạm Thị Mận, ông Phạm Đức Thao, bà Phạm Thị Mơ.

5. Hàng thừa kế thế vị của cụ Bùi Thị Suối là:

Chị Phạm Thị Thúy, anh Phạm Văn Khải, anh Phạm Văn Khoản; Anh Ngô Thanh Giang; chị Phạm Thị Lan, Phạm Xuân Huy, Phạm Xuân Tùng, chị Phạm Thị Hương; Anh Phạm Tuấn Long, anh Phạm Long Vương; anh Phạm Văn Trung; chị Phạm Thị Minh Hằng, cháu Phạm Trần Tiến Dũng.

6. Cách chia di sản thừa kế của cụ Suối thành 9 phần cụ thể:

6.1. Chia cho chị Thúy, ông Khải, anh Khoản hưởng 1 phần của ông Lộ, mỗi người hưởng là 6,6m2 đất ở và 0,67m2 đất vườn tương đương 33.408.000đồng.

6.2. Chia cho anh Giang hưởng 1 suất của bà Mận là 20m2 đất ở và 2m2 đất vườn có vị trí trong khuôn viên nhà thờ,  tương đương 100.225.000đồng.

6.3. Chia cho chị Lan, anh Huy, anh Tùng, chị Hương hưởng phần của ông Mẫn, mỗi người là 5m2 đất ở và 0,5m2 đất vườn tương đương giá trị 25.056.000đồng.

6.4. Chia cho anh Long, anh Vương hưởng phần của ông Căng, mỗi người  là 10m2 đất ở và 1m2 đất vườn, tương đương giá trị 50.112.000đồng.

6.5. Chia cho anh Trung hưởng phần của bà Mây là 20m2 đất ở và 2m2 đất vườn, tương đương giá trị 100.225.000đồng.

6.6. Chia cho chị Hằng và cháu Dũng hưởng phần của ông Thao mỗi người là 10m2 đất ở và 1m2 đất vườn, tương đương giá trị là 50.112.000đồng.

6.7. Chia cho bà Mưa, bà Mơ mỗi người hưởng 1 phần di sản là 20m2 đất ở và 2m2 đất vườn tương đương 100.225.000đồng.

6.8. Chia cho ông Trường 1 phần di sản của cụ Suối là 20m2 đất ở và 4m2 đất vườn, tương đương giá trị 100.450.000đồng.

- Chấp nhận sự tự nguyện của ông Khải, bà Thúy, anh Giang, anh Long, anh Vương, anh Dũng để phần di sản được hưởng, thờ cúng tổ tiên chung nằm trong diện tích sân nhà thờ nên không cần xác định vị trí diện tích di sản được giao là diện tích đất cụ thể.

- Giao cho ông Trường quản lý phần di sản thừa kế của anh Khoản, chị Hằng là diện tích đất nằm trong khuôn viên nhà thờ có vị trí sân gạch cho đến khi ông Khoản, chị Hằng về nước.

- Chấp nhận sự tự nguyện của bà Mơ, bà Mưa, chị Lan, anh Tùng, anh Huy, anh Trung nhường phần được hưởng di sản cho ông Trường và không yêu cầu  ông Trường thanh toán tiền.

- Giao cho ông Trường sử dụng 126m2 đất trong đó có 110m2 đất ở và 16m2 đất vườn và sở hữu các công trình xây dựng trên đất để đảm bảo quyền lợi cho vợ chồng ông Trường, bà Len.

- Giao cho ông Trường quản lý trông coi nhà thờ của hai cụ Mân, cụ Suối (có sơ đồ kèm theo).

- Ông Trường có trách nhiệm thanh toán tiền chênh lệch cho chị Hương con ông Mẫn là 25.056.000đồng.

- Ông Trường có trách nhiệm thanh toán cho anh Giang 1m2 đất ở và 2 m2 đất vườn là 5.250.000đồng.   

Ông Khải, chị Thúy, anh Khoản, chị Hương, chị Hằng, anh Giang, anh Dũng  và con cháu hai cụ Mân, cụ Suối có quyền đi lại thờ cúng tổ tiên theo thuần phong mỹ tục của người Việt Nam mà không ai cản trở.

7. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất khi các đương sự có yêu cầu.

8. Về án phí: Ông Trường phải chịu 6.275.000đồng; bà Mây phải chịu 5.011.000đồng; bà Mưa phải chịu 5.011.000đồng; chị Lan phải chịu 1.252.000đồng; anh Tùng phải chịu 1.252.000đồng; anh Huy phải chịu 1.252.000 đồng; anh Trung phải chịu 5.011.000đồng; anh Giang phải chịu 5.011.000đồng; ông Khải phải chịu 1.670.000đồng; bà Thúy ( Chắt) phải chịu 1.670.000đồng; anh Khoản phải chịu 1.670.000đồng; anh Long phải chịu 2.505.000đồng; anh Vương phải chịu 2.505.000đồng; chị Hằng phải chịu 2.505.000đồng; anh Dũng phải chịu 2.505.000đồng; chị Hương phải chịu 1.252.000đồng án phí chia di sản thừa kế cho mỗi suất được hưởng di sản.

 Chấp nhận sự tự nguyện của ông Trường là người quản lý di sản nộp án phí chia di sản thừa kế cho chị Hương, chị Hằng, anh Khoản đang sống tại nước ngoài cho đến khi các đương sự trên về nước ông Trường có quyền yêu cầu họ trả lại số tiền án phí chia di sản trên.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

8. Về quyền kháng cáo: Ông Trường, bà Len, ông Khải, bà Thảo, bà Liên, bà Mưa có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Phản hồi

* Vui lòng nhập bình luận tiếng Việt có dấu