Hiệp định EVFTA - Những nỗ lực đàm phán “win-win”

Nguyên Long
Chia sẻ
(VOV5) - Dự kiến hai bên sẽ ký kết đồng thời cả hai Hiệp định này vào ngày 29 tháng 6 năm 2019.

Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU), gọi tắt là Hiệp định EVFTA, và Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, gọi tắt là Hiệp định IPA, đã được khởi động và kết thúc trong bối cảnh quan hệ song phương giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu ngày càng phát triển tốt đẹp, đặc biệt là trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư. Dự kiến hai bên sẽ ký kết đồng thời cả hai Hiệp định này vào ngày 29 tháng 6 năm 2019.

PV: Thưa Bộ trưởng, nếu nói về nỗ lực vượt bậc trong đàm phán EVFTA thời gian qua thì Bộ trưởng nhấn mạnh đến những điều gì?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Có thể nói, đầu tiên là vượt về năng lực, trình độ của chúng ta trong việc tổ chức đàm phán về các vấn đề kỹ thuật, những nội dung với yêu cầu rất cao và rất đa dạng, rất sâu. Như trong 17 chương của hiệp định đó thì không phải là một hai nước mà là 28 quốc gia thành viên của EU - đó là những nền kinh tế có thể nói phát triển rất mạnh mẽ, là những quốc gia có khuôn khổ pháp luật và trình độ quản trị của quốc gia và nền kinh tế rất cao.

Chúng ta làm được điều đó là cả một quá trình rất dài từ năm 2010 đến nay là 9 năm. Thực sự chúng ta đàm phán thì chỉ cỡ 5 đến 7 năm, nhưng tất cả những nội dung đó là một quá trình rất dài mà chúng ta đã phải có một sự chỉ đạo rất quyết liệt, sự tham gia vào cuộc sâu rộng mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị mà đặc biệt là các cơ quan quản lý nhà nước. Tôi muốn nói đến vai trò của Đoàn đàm phán Chính phủ và các bộ, ngành và một trong những nội dung mà chúng ta thực hiện trong thời gian vừa qua chính là sự tham vấn của Chính phủ và đoàn đàm phán với cộng đồng doanh nghiệp để làm sao đảm bảo hiệu quả và lợi ích của chúng ta khi gia nhập. Đấy là yếu tố chúng ta đã vượt qua và chúng ta đã làm được.

Vấn đề thứ hai chúng ta đã vượt qua bản thân là vì 28 quốc gia thành viên không chỉ khác nhau về trình độ phát triển kinh tế đối với chúng ta và giữa họ với nhau, không chỉ khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa mà trong cả trình độ quản lý quốc và nền kinh tế… nhưng chúng ta cũng đã vượt qua tất cả. Đặc biệt là giai đoạn cuối khi nói về tiến trình để thông qua các thủ tục, các quy trình pháp lý của EU để từ kết thúc đàm phán cho đến câu chuyện tách hiệp định ra làm hai, rồi sau đó rà soát pháp lý... Và đặc biệt là khi Ủy ban châu Âu thông qua quyết định cho ký và dẫn đến tiếp theo là ngày 25 tháng 6 Hội đồng Châu Âu đồng ý cho ký thì đó thực sự là một quá trình rất dài và rất phức tạp. Bởi vì, 28 quốc gia thành viên, đặc biệt là Nghị viện Châu Âu và áp lực của Nghị viện Châu Âu đối với Chính phủ thành viên các nước trong châu Âu và hàng loạt những vấn đề lớn đã đặt ra, rồi cả những vấn đề liên quan đến những cam kết trong nội dung của hiệp định. Nhưng cũng có cả những vấn đề không liên quan đến những nội dung cụ thể trong Hiệp định nhưng Nghị viện châu Âu hay chính giới châu Âu vẫn đặt ra như là những yêu cầu để xem xét cho việc ký kết Hiệp định với Việt Nam… Thì chúng ta cũng đã hoàn tất được những công việc để giải tỏa tất cả những mối quan ngại hay đúng hơn là tìm ra những lời giải do họ nêu ra.Tất cả những cái đó tôi phải nói rằng là nhờ hệ thống chính trị của chúng ta từ sự chỉ đạo cao nhất của Bộ Chính trị và sau đó đặc biệt là của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo cho các bộ ngành tập trung quyết liệt để giải tỏa cũng như tìm ra hướng giải quyết. Chính vì vậy chúng ta đã có được quyết định này, và đó chính là giải pháp “win-win” cùng chia sẻ thắng lợi và sự thuận lợi của cả hai bên.

PV. Thưa Bộ Trưởnng, vậy khi EVFTA được ký kết và thông qua sẽ đem lại những lợi ích cụ thể gì cho cả Việt Nam và EU ?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Điểm đầu tiên, Hiệp định này đòi hỏi rất cao những yêu cầu về mở cửa thị trường dành cho nhau. Ví dụ như đối với Việt Nam thì chúng ta sẽ được hưởng việc cắt giảm hàng rào thuế quan của EU có thể nói là gần như 100% các dòng thuế trong vòng 7 năm ngay sau khi hiệp định có hiệu lực. Ví dụ nếu hiệp định được phê chuẩn vào cuối năm 2019 thì ngay từ năm 2020 sẽ có tới hơn 85,6% các dòng thuế của Việt Nam sẽ được hưởng cắt giảm thuế về 0% và như vậy sẽ chiếm tới hơn 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU.Đó mới chỉ là ví dụ về cắt giảm thuế, còn về tiếp cận thị trường thì còn lớn hơn nữa. Đây là một hiệp định rất toàn diện, có tới 17 Chương và 2 Nghị định và trải rộng trong tất cả các lĩnh vực đi kèm cả về thương mại, dịch vụ, hàng hóa, đầu tư… rồi liên quan đến các điều kiện ưu đãi, các vấn đề về sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp nhỏ và vừa… Điều đó có nghĩa là nếu như chúng ta thực thi và được hưởng những điều kiện mà các đối tác của EU dành cho chúng ta thì chúng ta sẽ có những điều kiện không chỉ nâng cao kim ngạch xuất nhập khẩu và thương mại hai chiều giữa Việt Nam với các nước trong Liên minh châu Âu mà chúng ta còn có những điều kiện tiếp tục hoàn thiện, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Và đặc biệt là chúng ta sẽ có những điều kiện để hình thành những chuỗi giá trị mới của chúng ta với một đối tác quan trọng trên thế giới. Đặc biệt nữa là châu Âu là một đối tác rất quan trọng của Việt Nam cả về khía cạnh công nghệ cũng như nguồn lực, nguồn vốn đầu tư… vì vậy chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Châu Âu trở thành những mối quan hệ rất căn bản, rất quan trọng trong chiến lược phát triển của cả hai bên.

Chúng tôi cũng phải nói thêm một điều là cùng với các Hiệp định thương mại tự do khác như CPTPP hay là các hiệp định như RCEP sắp tới chúng ta sẽ ký kết và cùng với hệ thống các hiệp định thương mại tự do chúng ta đã có được sẽ cộng hưởng, tạo nên sự phát triển, tiến bộ xã hội cũng như tiếp tục hoàn thiện các khuôn khổ luật pháp, cả về mặt thể chế cũng như kinh tế thị trường định hướng XHCN của chúng ta.

Riêng đối với Việt Nam thì chúng ta phải khẳng định rằng, cùng với hiệp định thương mại tự do EVFTA, Hiệp định bảo hộ đầu tư (IPA) cũng được ký kết có thể nói là vị thế của Việt Nam sẽ được khẳng định rất mạnh mẽ trên trường quốc tế như là một trong những quốc gia có đóng góp rất to lớn và có trách nhiệm trong sự phát triển của toàn cầu hóa, theo hướng tự do hóa và thuận lợi hóa thương mạnh. Nhưng trên cơ sở có tính đến những điều kiện phù hợp để bảo vệ lợi ích của các nước tham gia, đặc biệt là phù hợp với trình độ phát triển và sự chênh lệch của các quốc gia và các đối tác cùng tham gia hiệp định này. 

PV: Được biết, hiện nay đã có 27 nước và vùng lãnh thổ của EU đầu tư vào Việt Nam với gần 3.000 dự án, tổng vốn đầu tư khoảng 45 tỷ USD. Xin được hỏi Bộ trưởng về những cơ hội của doanh nghiệp EU tại thị trường Việt Nam khi EVFTA được ký kết và thông qua?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Cả EVFTA và EVIPA sẽ được ký kết đồng thời vào ngày 29/6/2019. Theo tôi, nếu được phê chuẩn, có thể nói môi trường đầu tư và những điều kiện kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam trước tiên cho các doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam sẽ được cải thiện rất đáng kể và hàng loạt những vấn đề lớn liên quan đến bảo hộ đầu tư cũng như để giải quyết các tranh chấp đầu tư sẽ được xây dựng và tổ chức thực hiện dựa trên luật pháp quốc tế phù hợp với luật pháp của Việt Nam cũng như của châu Âu.

Có thể nói cộng đồng của doanh nghiệp châu Âu và thế giới sẽ có những cái cơ chế và điều khoản để bảo hộ, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, chưa kể đến môi trường đầu tư thông qua các cơ chế và pháp luật, điều hành của Chính phủ trong quản lý nhà nước ở Việt Nam sẽ được cải thiện cơ bản.

Chính vì vậy, chúng tôi tin tưởng các nhà đầu tư châu Âu sẽ là những nhà đầu tư đầu tiên mà ngay sau khi hiệp định được ký kết sẽ có sự quan tâm rất nghiêm túc và có sự tăng trưởng rất mạnh mẽ, thậm chí là đột biến ở tại Việt Nam, vì các điều kiện để phát triển thị trường là những điều kiện cơ bản đầu tiên để các nhà đầu tư xem xét.

Và với việc thuận lợi hóa thương mại như vậy, các nhà đầu tư châu Âu có rất nhiều điều kiện để tiếp tục đầu tư tham gia phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế tương đối ở Việt Nam hiện nay và trong đó có các tiềm năng phát triển trong tương lai.

Ví dụ, công nghiệp chế biến thực phẩm, ngành ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp mũi nhọn như ôtô, điện tử… hay các ngành công nghiệp phụ trợ cũng sẽ có các cơ hội để chia sẻ và phát triển ở Việt Nam.

Vấn đề tiếp theo rất có ý nghĩa với các doanh nghiệp châu Âu, đó là bên cạnh hiệp định EVFTA đã có hàng loạt các hiệp định liên kết và kết nối liên thông với các thị trường khác như CPTPP, ASEAN với các đối tác… thì các nhà đầu tư châu Âu sẽ có điều kiện tiếp cận không chỉ với 100 triệu dân ở thị trường đang phát triển mạnh mẽ này mà còn 660 triệu dân ở thị trường khu vực ASEAN và còn rất nhiều quốc gia đối tác khác.

Vì vậy đây cũng chính là cơ hội để các nhà đầu tư châu Âu khai thác được các thuận lợi, ưu đãi của các hoạt động thương mại đối với các khu vực thương mại tự do khác mà Việt Nam tham gia.

PV: Tuy nhiên, việc tận dụng được các ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do vốn không dễ dàng. Xin Bộ trưởng cho biết, đối với EVFTA thì đâu là thách thức lớn nhất đòi hỏi sự nỗ lực từ Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp và người dân?     

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Tôi muốn nhấn mạnh đến những khó khăn thách thức đặt ra cho cho nền kinh tế, các ngành kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp của chúng ta thì phải có vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như của các cấp chính quyền và hệ thống chính trị của chúng ta, để trong khuôn khổ phù hợp với các cam kết hội nhập này chúng ta có thể hỗ trợ và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vượt lên trên những khó khăn đó.

Ví dụ như về cạnh tranh, chúng ta mở cửa thị trường trong nước cho các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của các nước thì chúng ta cũng bắt buộc phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt. Khó khăn cho cộng đồng của doanh nghiệp vốn là những doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế về quy mô, về nguồn lực, về trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực…

Chính vì vậy cách vận dụng và cách tổ chức như thế nào để chúng ta đảm bảo rằng các ngành kinh tế, các doanh nghiệp và các sản phẩm, dịch vụ của chúng ta sẽ vượt lên được những khó khăn này và để có được sức cạnh tranh cao hơn, để phát triển bền vững… đó là những đòi hỏi và đồng thời cũng là những yêu cầu đặt ra trong những chương trình hành động mà Chính phủ sẽ ban hành trong thời gian tới.

PV:  Với những thách thức như vậy, xin được hỏi trách nhiệm của Chính phủ và cụ thể là Bộ Công Thương - với chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công nghiệp và thương mại như thế nào để doanh nghiệp có thể tận dụng được các cam kết từ hiệp định?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Về trách nhiệm của Bộ Công thương sẽ tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ gì và như thế nào đặc biệt trong việc tạo ra những thuận lợi để có hiệu quả, tạo ra những thuận lợi, hỗ trợ có hiệu quả cho cộng đồng doanh nghiệp và các ngành kinh tế của Việt Nam - thì tôi cũng xin chia sẻ: Một là chúng ta đã có cả một quá trình dài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là từ những khuôn khổ đầu tiên là Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và sau đó là trong Cộng đồng kinh tế Asean, rồi các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương khác, và mới đây nhất là Hiệp định CPTPP…

Có thể nói là trong quá trình hội nhập chúng ta cũng chính là quá trình chúng ta đã học hỏi và đã rút ra rất nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là giữa quá trình xây dựng chính sách - cả trong chính sách hội nhập phát triển gắn với phục vụ cho người dân, cho doanh nghiệp để tạo điều kiện cho phát triển kinh tế xã hội bền vững. Chính vì vậy những bài học kinh nghiệm của chúng ta, đặc biệt là trong việc xây dựng chính sách gắn chặt với quá trình tham vấn ý kiến của doanh nghiệp đã được chúng ta thực hiện rất nghiêm túc trong thời gian vừa qua.

Thứ nhất là quá trình khi chúng ta đàm phán với các đối tác trong EU thì cũng chính là quá trình mà Đoàn đàm phán của Chính phủ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức phối hợp với các bộ ngành và đặc biệt là các Hiệp hội, các ngành nghề và cộng đồng doanh nghiệp để tham vấn và xây dựng quan điểm trong đàm phán, để đảm bảo hài hòa và đảm bảo tối đa lợi ích của đất nước, của nền kinh tế cũng như là của doanh nghiệp.

Thứ hai là quá trình đó cũng được chúng ta rút kinh nghiệm trong quá trình tái cơ cấu và đổi mới nền kinh tế và quản lý nền kinh tế của chúng ta trong quá trình thực thi các hiệp định thương mại mà chúng ta đã có. Chính vì vậy quá trình đàm phán Hiệp Định EVFTA này và hiệp định IPA cũng chính là quá trình chúng ta tiếp tục đưa những nền tảng nội dung để đảm bảo cho năng lực cạnh tranh mạnh mẽ.

Thời gian tới đây, việc đầu tiên là sẽ có quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động và Chương trình hành động này có thể nói là một chương trình tổng thể, toàn diện, bao gồm những trụ cột chính:

Một là cung cấp thông tin tuyên truyền phổ biến để cho tất cả người dân và cộng đồng doanh nghiệp cũng như các tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị của chúng ta nắm bắt đầy đủ, toàn diện, kịp thời tất cả những nội dung của hiệp định cũng như những cam kết của chúng ta. Cũng sẽ phải tập trung vào làm rõ cho bộ máy quản lý cũng như người dân và doanh nghiệp hiểu về những yêu cầu, những nhiệm vụ gắn với thách thức và cả cơ hội đặt ra cho chúng ta.

Thứ hai là tổ chức xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật cho phù hợp với các cam kết ký kết trong Hiệp định thương mại này.

Thứ ba là với trách nhiệm quản lý của các bộ, ngành thì việc tổ chức thực hiện các cam kết hội nhập không chỉ dừng lại ở hệ thống pháp luật mà còn trong quá trình điều hành và quản trị về kinh tế, nghĩa là các kế hoạch tổ chức tái cơ cấu các ngành kinh tế và nâng cao hơn nữa hiệu quả của quản lý nhà nước cũng như tiếp tục thực hiện những cải cách - để đảm bảo cho môi trường đầu tư, kinh doanh và các hoạt động quản lý nhà nước của chúng ta phải gắn chặt với những nội dung của cam kết và hướng vào việc hỗ trợ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, để khai thác được những cơ hội này…

PV: Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng.

Phản hồi

* Vui lòng nhập bình luận tiếng Việt có dấu